← Hồi 187 | Hồi 189 → |
Lạc Dương, Chu Vương đô.
Vương Đô ngày trước phồn hoa, mấy chục năm trước đã thành một đám tro tàn.
Lạc Dương của ngày nay, đã không còn là Lạc Dương của Đông Chu nữa, mà là Lạc Dương của Đại Tần. Tường thành sừng sững làm bằng đất màu tro xám, dưới ánh mắt trời lộ ra vẻ hùng hồn mà thê lương. Đại kỳ Thương Long bay phần phật trên lầu thành, dường như đang kể lại sự uy nghiêm của Lạc Dương trước kia.
Có lẽ là vị Thiên cổ Nhất đế sắp đến, Thành Lạc Dương khiến cho Lưu Khám có cảm giác không hề giống với lần trước. Nếu như nói, lần trước Lạc Dương mà hắn nhìn thấy chỉ là một thành thị phồn hoa mà náo nhiệt, thì lần này, Lạc Dương lại tỏa ra vương khí.
Không hiểu vì sao, từ lúc đi vào trong thành Lạc Dương, tâm trạng của Lưu Khám lại nặng nề một cách khó hiểu. Lý Do sắp xếp cho hắn ở trong dịch quán, sau đó lại vội vã đi đón tiếp đội nhân mã tiền tiêu của xe giá Thủy Hoàng đế. Thủy Hoàng đế sẽ đến lúc giữa trưa, đêm qua ở Cốc Thành, nhưng đội nhân mã tiên phong đã đến Lạc Dương. Là Quận thủ quận Tam Xuyên, chủ quản của Lạc Dương, Lý Do phải phấn chấn tinh thần gấp nhiều lần, đi nghênh tiếp Vương giá đến. Kết quả là, y cũng chẳng quan tâm đến việc chào hỏi bọn người Lưu Khám.
Giờ Mão, Lưu Khám nhận được thông báo, đến nghênh giá ở bờ sông Lạc Thủy ngoài thành Lạc Dương. Không chỉ có Lưu Khám, tất cả những quan viên Lạc Dương, bao gồm cả Lý Do, còn có thần dân Lạc Dương, đều phải chờ ở bờ sông Lạc Thủy.
Lưu Khám dẫn theo Lưu Tín, khoanh tay đứng ở bờ Lạc Thủy.
Đã vào đông, thời tiết lạnh lẽo vô cùng. Lạc Thủy cuồn cuộn đã bắt đầu đóng băng, thỉnh thoảng còn có những mẩu băng bập bềnh.
Hai nghìn năm sau...
Hoàng Hà cạn khô, Lạc Thủy cạn nước.
Kiếp trước Lưu Khám đã từng tới nơi này. Lạc Thủy khi đó đã trở thành một dòng suối nhỏ không liên tục, lúc đó có được nửa phần khí phách hùng hồn mà hôm nay nhìn thấy hay không? Người ta thường nói, Hoàng Hà là sông mẹ của Trung Hoa, Lạc Thủy là một nhánh sông Hoàng Hà, có vẻ hào hùng của Hoàng Hà chảy về đông. Nhìn thấy dòng sông trước mắt, Lưu Khám mới có thể cảm thấy, dân tộc Hoa Hạ vốn dĩ nên có khí khái.
- Nhị thúc, nhị thúc!
Lưu Tín giọng ồm ồm gọi Lưu Khám mấy tiếng. Lưu Khám đang trầm tư tỉnh lại, bên tai chỉ nghe thấy giọng nói như núi kêu biển gầm.
Thoắt cái đã đến giữa trưa. Xa xa trên dường, đã xuất hiện cờ Thương Long bay phần phật trong gió, xa giá của Thủy Hoàng đế đến rồi. Quan viên lớn nhỏ, bách tính Lạc Dương lũ lượt quỳ xuống. Lưu Khám dẫn theo Lưu Tín, cũng quỳ bên bờ sông, nằm sấp cúi đầu. Mặc dù rất chán ghét quy tắc này, nhưng nhập gia tùy tục, Lưu Khám vẫn không dám làm điều khác người, đứng ở nơi đó.
Tiếng kèn uy vũ vang vọng trong không trung. Từng đội xa trượng chạy qua Lạc Dương. Chiếc Ngự liễn (chỉ xe vua ngồi, có người kéo) ở chính giữa bỗng nhiên dừng lại, từ trong xe kéo, một vị nam tử mặc long bào bước ra. Trong chớp mắt, tiếng hô vạn tuế vang lên càng thêm lớn, khiến cho Lạc Thủy cũng bị át tiếng. Lưu Khám trộm nhìn, không khỏi giật mình. Có lẽ, vị nam tử đứng trên xe chính là vị hoàng đế thiên cổ. Chỉ là cách hơi xa, Lưu Khám ít nhiều cũng có chút nhìn không rõ.
Sở dĩ hắn giật mình, là bởi vì sự dũng cảm mưu trí của Thủy Hoàng đế.
Ai mà không biết, dư nghiệt sáu nước trăm phương ngàn kế muốn giết hại ông, nhưng ông còn dám một mình xuất hiện giữa tầm mắt của mọi người như thế này. Là cuồng vọng, hay nói cách khác, là một loại kiêu ngạo của Đế vương! Từ khoảnh khắc này trở đi, Thủy Hoàng đế dường như đang khiêu chiến với những người lòng dạ hiểm ác: Trẫm, đang ở chỗ này đây... Nếu như có bản lĩnh thì đến đây ra tay đi. Trẫm ở đây đợi các ngươi.
Lưu Khám không khỏi thầm ca ngợi một tiếng: Đúng là vị vua mưu lược kiệt xuất!
Đại lễ đón mừng đại khái tiếp tục lâu dài, xa trượng từ từ tiến vào trong thành Lạc Dương.
Là một quan viên phụng mệnh, Lưu Khám cùng với Lý Do đi theo phía sau cùng của xa giá. Ngày trước lúc Thủy Hoàng đế lần đầu tiên tuần thú phía đông, thành Lạc Dương bắt đầu xây dựng hành cung, chính là xây dựng lại một tòa cung điện trên chỗ Vương đô Đông Chu cũ. Quy mô nhỏ hơn nhiều so với Hàm Dương cung, chẳng qua là ở phương diện khác, hoàn toàn là dựa theo cấu trúc của Hàm Dương cung mà làm theo. Lúc này, cửa cung bình thường đóng chặt đã rộng mở.
- Nhị thúc, đói bụng rồi!
Lưu Tín đứng ở ngoài cửa cung, kéo kéo vạt áo Lưu Khám, khẽ oán trách.
Cũng khó trách, từ sáng đến giờ, có thể nói là chưa có hạt cơm nào vào bụng. Sau khi Thủy Hoàng đế vào Lạc Dương cung, ngoài những quan viên đi theo Thủy Hoàng đế từ Hàm Dương đến ra, bên ngoài cổng còn có mấy chục quan viên đang đợi Thủy Hoàng đế triệu kiến. Văn có võ có, ai nấy thần sắc nghiêm trang, chắp tay đứng nghiêm. Nhìn những ấn tín trên người những quan viên này, Lưu Khám chỉ có thể cười gượng, chức vị của hắn e là nhỏ nhất.
Nói cách khác, nếu như Thủy Hoàng đế triệu kiến hắn, e là phải đợi đến cuối cùng. Đương nhiên rồi, cũng có thể sẽ không triệu kiến. Dù sao Thủy Hoàng đế sẽ dừng chân ở Lạc Dương mười ngày, trong mười ngày này, không thể chắc chắn lúc nào mới nhớ đến người như Lưu Khám. Thế nhưng trước khi Thủy Hoàng đế hạ chiếu cho bọn họ giải tán, hắn chỉ có thể ở chỗ này mà chờ.
- Tín, nhẫn nại một chút!
Lưu Khám vỗ nhẹ nhẹ Lưu Tín.
- Lát nữa giải tán rồi, Nhị thúc sẽ dẫn cháu đi ăn mỹ thực của Lạc Dương, muốn ăn gì thì ăn nấy!
Lưu Tín rất ngoan ngoãn gật đầu, không nói gì thêm.
Nhưng Lưu Khám cũng biết, tên tiểu tử này đúng là đói bụng lắm. Bằng không, với tính cách của Lưu Tín, không đến lúc chịu không nỏi thì sẽ không mở miệng. Chỉ hi vọng là Thủy Hoàng đế hạ chiếu nhanh một chút... Nếu không đến bản thân Lưu Khám cũng cảm thấy đói bụng không chịu nổi rồi.
Nhìn những quan viên đang khoanh tay đứng, Lưu Khám không khỏi thầm kính phục. Người nào người này giống như là tượng binh mã vậy, không hề động đậy. Làm quan, xem ra cũng phải học tập, loại công phu này, đúng là không dễ luyện tập.
Trong đầu Lưu Khám miên man suy nghĩ.
Thời gian, bất tri bất giác đã trôi qua. Những quan viên ngoài cửa cung đã bớt đi một nửa... Còn sắc trời, cũng dần dần tối sầm lại.
Đúng lúc này, cửa cung mở ra, một gã nội thị mặc đồ đen từ trong cung bước ra, tuổi khoảng chừng tứ tuần, thân hình cao lớn, cường tráng. Đôi con người dài và nhỏ, ngũ quan dễ coi, có vẻ là một bậc nhân tài, chỉ là trên cằm trụi lủi, trên người thiếu đi một loại dương cương.
Đứng bên ngoài cửa cung, gã nội thị giọng the thé kêu:
- Bệ hạ có chỉ, triệu Đô Úy Tứ Thủy Lưu Khám yết kiến!
Lưu Khám sợ hãi nhảy dựng lên, mặc dù đã có sự chuẩn bị tâm lý, thế nhưng hắn không thể nào ngờ được, Thủy Hoàng đế ngày đầu tiên đến Lạc Dương lại triệu kiến hắn.
Nhưng Lưu Khám cũng không dám chậm trễ, hắn vội vàng tiến lên phía trước nói:
- Thần Lưu Khám tiếp chỉ!
- Ngươi chính là Lưu Khám?
Gã nội thị nhìn Lưu Khám một lượt từ trên xuống dưới, hỏi một cách kì quặc. Xem ra, cũng không phải là có ý gì... Thái giám mà, thường là lời nói ra thiếu chút dương khí, khi người khác nghe thấy, tự nhiên cảm thấy không thoải mái, Lưu Khám đương nhiên cũng không ngoại lệ.
E rằng, đây cũng là một trong số lí do mà đa số người ghét thái giám. Ít nhất Lưu Khám thấy, ngữ điệu ngữ khí của gã nội thị này không thiếu mùi vịgây khó dễ. Trong lòng cảm thấy không vui, nhưng trong lời nói, vẫn tỏ rõ vẻ cung kính, chắp tay hành lễ nói:
- Hạ thần chính là Lưu Khám!
- Theo ta vào trong đây, Bệ hạ đang chờ ngươi!
Gã nội thị sau khi nói một câu, quay người đi vào trong.
Lưu Khám vội vàng nói:
- Vị này...
Lời chưa ra khỏi miệng, lại không nói lên lời. Gọi là công công, ở thời đại này hình như còn chưa có cách gọi này, nhưng không gọi là công công, Lưu Khám lại không biết nên xưng hô thế nào. Chuyện xưng hô này phải cẩn thận một chút, thái giám vốn dĩ là một nam nhân không hoàn chỉnh, trong lòng không tránh khỏi có chút khó xử thế này thế kia. Nếu như vì một từ xưng hô mà đắc tội với đối phương, thật là không đáng.
Cũng may, gã nội thị cũng nhanh nhẹn, biết chỗ khó của Lưu Khám, lập tức mỉm cười:
- Ta Lang trung lệnh Trung Xa phủ - Triệu Cao, Lưu Đô úy có thể gọi là là Triệu lang trung! À... Ngươi cứ gọi là Triệu đại phu đi!
Từ từ đã, Triệu Cao?
Quả tim Lưu Khám đập mạnh, không khỏi nhìn thật kĩ gã nội thị này. Lão là Triệu Cao? Chính là Triệu Cao đổi trắng thay đen đó sao?
Tuy rằng lần đầu tiên nhìn thấy vị thái giám khét tiếng thời hậu thế, nhưng Lưu Khám không thể không tăng vài phần dè chừng.
Luận về thứ tự, chức vị của Triệu Cao cao hơn Lưu Khám một bậc.
Thế nhưng luận về địa vị, Lưu Khám thúc ngựa cũng đuổi không kịp tên hại nước hại dân này.
*****
Hắn vội bước lên một bước, khẽ nói:
- Triệu Lang trung, có thể để cho hạ thần nói với tùy tùng một câu không? Ngài cũng biết đấy, những tên tùy tùng của hạ thần toàn người thô thiển, chưa từng gặp qua những người có địa vị lớn.
Thái độ cung kính của Lưu Khám, Triệu Cao rất hài lòng.
- Vậy nhanh lên một chút, đừng để Bệ hạ chờ.
Thế là, Lưu Khám dưới con mắt đố kị của rất nhiều quan viên, đi đến bên cạnh Lưu Tín, khẽ thì thầm vài câu, bảo Lưu Tín ở đây đợi.
Sau đó, hắn đi theo Triệu Cao vào trong cung Lạc Dương. Trên đường, hai người không hề nói chuyện với nhau. Lưu Khám đi phía sau, nhìn Triệu Cao đi như bay ở phía trước, cảm thấy có chút kì quặc. Những thái giám trong phim truyền hình thời hậu thế, đi lại thường là khép chân, bước bước nhỏ, nhìn khó chịu biết mấy. Nhưng Triệu Cao này, dường như đã phá vỡ nhận thức của Lưu Khám đối với thái giám. Lão đi rất nhanh, bước đi rất lớn, thậm chí một bước bằng hai bước của một người bình thường. Đồng thời, từ trong bước đi có nhịp điệu của Triệu Cao, Lưu Khám nhìn ra lão cũng là một người có võ nghệ cao cường.
Võ nghệ của Triệu Cao này rất lợi hại sao? Một người như vậy, sao lại phải làm thái giám?
Ôm nỗi nghi hoặc, hai người đi đến phía trước đại tiền.
Đại điện của cung Lạc Dương vàng son lộng lẫy, không kém so với cung Hàm Dương. Triệu Cao dừng bước, ra hiệu bảo Lưu Khám không cần đi tiếp nữa.
- Lưu Đô Úy cứ đứng ở đây đợi chỉ.
Nói xong, Triệu Cao cũng không quay đầu lại, bước đi như bay lên bậc thềm, trong chớp mắt đã chìm vào trong bảo điện rực sáng.
Đứng ở bậc thang phía dưới, Lưu Khám có thể nghe thấy trong đại điện mơ hồ truyền đến tiếng âm thanh giống như có tiếng trúc, lại có mùi thức ăn bay tới mê hoặc lòng người. Thủy Hoàng đế đang ở trong cung, dùng cơm cùng các thần tử. Nghĩ tới đây, trong lòng Lưu Khám không khỏi cười gượng, nuốt nước bọt. Muốn triệu kiến ta, lại để ta ở chỗ này ngửi mùi thức ăn, thật đúng là, thật đúng là quá đáng! Nhưng ai bảo người ngồi trong đại điện kia, là vị hoàng đế thiên cổ.
Lưu Khám tuy trong lòng có chút bất mãn, nhưng lại không thể không nhẫn nại, ngoãn ngoãn đứng thẳng ở bậc thềm dưới chờ Thủy Hoàng đế hạ chỉ.
Thời gian đã trôi qua một chút...
Trời đã tối sầm. Trong Lạc Dương cung có một trận gió nhỏ thổi đến khiến Lưu Khám bất giác giật mình.
Cảm giác này, đúng là không dễ chịu tí nào! Vừa đói vừa rét, đại khái là cảm giác như vậy. Bây giờ Lưu Khám lại ngưỡng mộ những quan viên đang đợi ngoài cung... Ở ngoài cung Lạc Dương, ít nhất có thể hoạt động một chút. Nhưng ở trong cung, hắn không dám cựa quậy. Mặc dù là quy định của Lão Tần, không rườm rà như trong hoàng cung hậu thế, nhưng chẳng may làm ai đó không vui, thì sẽ phải chịu tội rơi đầu. Người đang ngồi trong cung điện kia chính là Tần Thủy Hoàng. Hơn nữa, Lưu Khám mơ hồ cảm thấy được, hình như có vô số ánh mắt từ một nơi bí mật nào đó đang nhìn chằm chằm vào hắn. Khiến hắn không dám di chuyển lung tung.
Lưu Khám đứng ở ngoài điện hơn nửa canh giờ, chợt nghe thấy tiếng bước chân vang lên, Lý Do từ trong điện bước ra, đi xuống bậc thềm.
- Lưu Đô úy theo ta về thôi!
- Gì chứ?
- Hôm này Bệ hạ có chút mệt mỏi, không gặp ngươi nữa... Ngươi về trước đi, cứ nghỉ ngơi ở trong dịch quán ấy. Mấy ngày nữa tự có chỉ cho ngươi.
Cái này gọi là đạo lí gì chứ!
Lưu Khám không nhịn được chửi thầm mấy câu!
Lúc thì muốn gặp, lúc lại nói không gặp. Đây không phải là lấy người khác ra làm trò đùa sao? Trời lạnh như vậy, đứng ở đây vừa hứng gió lạnh vừa phải nhịn đói hơn nửa canh giờ, đến mặt cũng chưa nhìn thấy đã đuổi đi rồi? Nhưng còn cách nào khác! Ai bảo lão là chủ, mình là thần? Ai bảo lão là Tần Thủy Hoàng cơ?
Tâm tư Đế vương thật khó nắm bắt. Cho dù Lưu Khám thông minh, cũng không tìm ra cách đoán tâm tư của Thủy Hoàng đế.
Đi theo Lý Do, hắn đi ra khỏi Lạc Dương cung. Trong lòng tuy rằng khó chịu, cơ thể cũng mệt mỏi rã rời, nhưng vẫn gắng sức tỏ thái độ anh hùng. Vừa đi ra khỏi cổng Lạc Dương cung, Lưu Khám liền thở phào nhẹ nhõm.
Lý Do xoay người lên ngựa, bỗng nhiên cười nói:
- A Khám, hôm nay biểu hiện rất tốt đó!
Biểu hiện?
Ta biểu hiện lúc nào?
Lưu Khám ngẩn người, đang định mở miệng hỏi. Lý Do đã cướp lời:
- Trời không còn sớm, ngươi quay về dịch quán ăn chút gì trước đi... Hì hì, sau này e là ngươi có lúc không được nhàn rỗi. Khoảng hai ngày nữa, Bệ hạ sẽ không tìm ngươi nữa, tranh thủ thời gian dẫn cháu ngươi đi thăm Lạc Dương đi.
- Lý Quận thủ?
Lưu Khám còn chưa dứt lời, Lý Do đã giơ roi quất ngựa đi.
Lưu Khám chưa kịp hiểu gì cả, đi về dịch quán. Lưu Tín đói từ lâu lắm rồi, lập tức đứng lên, bảo dịch quán chuẩn bị đồ ăn. Cậu ăn nhồm nhoàm, rất ngon lành. Nhưng Lưu Khám lại không ăn uống gì, ngồi một bên, nghĩ về cảnh tượng xảy ra ngày hôm nay, nhưng nghĩ mãi không ra manh mối nào cả.
Đúng là một Hoàng đế khó đoán!
Mấy ngày tiếp theo, giống như Lý Do đã nói, Thủy Hoàng đế không triệu kiến hắn. Nhưng cũng không có ý chỉ nói, để cho Lưu Khám rời khỏi Lạc Dương. Những quan viên cùng đợi giá với hắn trước kia đều đã không còn ở Lạc Dương nữa rồi, đều quay về quê nhà rồi. Quan viên cả một vùng Lạc Dương rộng lớn, cuối cùng chỉ còn lại thúc cháu Lưu Khám, Lưu Tín và hai mươi gã thân vệ đi cùng.
Cả ngày không có việc gì đáng làm, Lưu Khám dẫn theo Lưu Tín đi dạo quanh thành Lạc Dương. Đi hết Lạc Dương, đi đến vùng ngoại ô... Ban đầu, Lưu Tín còn có chút hứng thú với việc này. Nhưng sau hai ngày, hứng thú của cậu mất hẳn. Cảnh trí cỏ cây hoa lá không còn sức hấp dẫn nữa, ăn no bụng, luyện chút võ còn thích hơn là chu du bốn phía. Còn Lưu Khám, cũng không mấy hứng thú. Phải biết là, Lạc Dương lúc này mặc dù phồn hoa, nhưng chỉ là phồn hoa, nhiều người mà thôi.
Hậu thế, những cảnh trí này cơ bản không còn nữa. Đi xa thì lo lạc đường, ở trong Lạc Dương thì đi hai vòng là đủ, chẳng còn gì phải lưu luyến. Hơn nữa, bây giờ là mùa đông, cũng chẳng có cảnh sắc muôn hoa đua thắm. Hiu quạnh, ngoài hiu quạnh ra, hầu như không còn gì. Vì vậy, Lưu Khám cũng ở trong dịch quán, lúc không có chuyện gì làm, thường luyện võ đấu sức với Lưu Tín.
Những thân vệ dưới sự dẫn dắt của hai thúc cháu, dường như cũng chẳng có hứng chơi đùa. Cưỡi ngựa, luyện võ, ngày tháng cứ như vậy trôi qua.
Thấm thoắt đã sắp mười ngày trôi qua. Vào buổi tối ngày thứ tám kể từ khi Thủy Hoàng đế đến Lạc Dương, Lưu Khám với Lưu Tín vừa mới đấu võ xong, người đầm đìa mồ hôi trở về phòng. Đang chuẩn bị tắm nước nòng, bỗng nghe bên ngoài có tiếng người hô to:
- Đô Úy Tứ Thủy Lưu Khám đâu? Mau đến tiếp chỉ... Bệ hạ có chỉ, Lưu Khám tiếp chỉ!
Lưu Khám ngẩn người, vội vàng thuận tay phủ lên người chiếc áo bào, bước ra gian ngoài.
Chỉ thấy ngoài cổng dịch quán, Lý Do và một gã nội thị áo đen đang đứng ở đó, dịch quan quỳ xuống nghênh tiếp, kính cẩn lễ phép..
- Lưu Đô Úy tiếp chỉ!
Lý Do nhìn Lưu Khám, mỉm cười, sau đó nghiêng người nhường đường.
Gã nội thị đến truyền chỉ lại không phải là Triệu Cao.
Gã tiến lên phía trước, dâng thánh chỉ lên nói:
- Bệ hạ có chỉ, Đô Úy Tứ Thủy Lưu Khám, kiên quyết hùng võ, thông tuệ nhạy bén. Kỳ tổ là Lưu Tùng, mặc dù vì việc Tiên vương, mà trốn tội Trung Nguyên, nhưng con trai Lưu Thị trong lòng có Lão Tần, trung dũng tốt đẹp. Từ khi ra làm quan đến nay, lập nhiều kiến công, không phụ mệnh Lão Tần oai hùng.
Lần này trẫm tuần thú phía đông, lệnh cho Lưu Khám theo giá, làmTrung Lang kỵ tướng quân tiên phong. Từ ngày hôm nay, đi theo hộ vệ.
Ý chỉ đến bất ngờ này khiến Lưu Khám trợn tròn mắt ngạc nhiên.
Đi theo giá?
Lưu Khám ngẩn người nhìn Lý Do, thật sự là có chút hồ đồ, đang yên đang lành, sao lại để cho hắn theo giá? Còn trở thành Trung Lang kỵ tướng nữa?
*****
Trung lang kỵ tướng, nói một cách dễ hiểu, chính là kỵ quân cấm vệ quan, là một giáo kỵ quân thống lĩnh Trung úy quân. Phẩm trật đương nhiên không bằng chức Đô Úy Tứ Thủy vốn có của Lưu Khám, nhưng những người muốn làm chức Trung lang kỵ tướng đếm không xuể. Nguyên nhân không ngoài điều gì khác: Trung úy quân là cấm vệ quân của Thủy Hoàng đế, cũng là hộ vệ quân của cung Hàm Dương. Ai cũng biết, Đại Tần có trăm vạn hùng sư, nhưng luận về tinh nhuệ nhất, có sức chiến đấu nhất, đứng đầu là Trung úy quân. Bất luận là trang bị hay là đãi ngộ, thậm chí đến Thú vệ quân đều không bì được.
Còn Trung lang Kỵ tướng, lại là quan cấm vệ quân của Thủy Hoàng đế, không phải người tâm phúc thì không thể đảm đương. Không chỉ cần trung thành, mà còn cần chân tài thực học. Muốn dựa vào mối quan hệ mà vào quân Trung Úy, gần như là một chuyện không thể nào. Bởi vì quân chức trong Trung Úy quân, vượt qua phủ Đại tướng quân, phải do Thủy Hoàng đế trực tiếp ban chức. Cho dù là một quân tốt bình thường trong Trung Úy quân, cũng phải phù hợp với ba điều kiện. Đầu tiên, là người Lão Tần. Người Lão Tần ở Tây Thùy đương nhiên là tốt nhất.
Tây Thùy là cách gọi phía Tây thời nhà Ân. Cũng là nơi Lão Tần hưng thịnh. Thuở ban đầu, người Lão Tần vì giỏi nuôi ngụa, nên ngụ ở Tây Thùy. Chu Hiếu Vương phong Doanh Phi Tử là nước chư hầu, từ đó có bộ tộc Lão Tần. Năm 770 trước công nguyên, Tần Tương Công hộ tống Chu Bình Vương di chuyển về phía đông, vì công phong thưởng, khởi đầu xây dựng nước Tần. Nguyên Châu Triều bị người Nhung và người Địch bá chiếm, là lãnh địa Thiểm Tây thời hậu thế. Đây mới bắt đầu bước chân Đại Tần bành trướng. Năm 677 trước Công nguyên, Tần lập đô ở đất Ung. Sau đó ba trăm năm, đô thành nhiều lần thay đổi, lãnh địa cũng thay đổi theo, diện tích trở nên càng ngày càng rộng.
Từ bước đầu tiên Lão Tần đi đến Tây Thùy trở đi, Đô Thành đã thay đổi tám lần. Từ Tần Ấp (nay Cam Túc), đến Ấp (nay Đông Nam, huyện Lũng, Sơn Tây), sau đó Vị Chi Hội (nay Đông Bắc, huyện Mi, Sơn Tây), Bình Dương (nay huyện Mi, Thiểm Tây), Ung Thành (nay huyện Phượng TƯờng, Thiểm Tây), Kính Dương, Lịch Dương (nay bắc huyện Đồng, Thiểm Tây), đến Hàm Dương sau cùng.
Năm trăm năm hưng suy luân đổi, người Lão Tần cuối cùng sừng sững ở Quan Trung.
Trong quá trình này, người Tây Thùy chiến đấu đẫm máu, tử thương khó mà đếm hết. Nhẫn nhục chịu khó, trong khó khăn cuối cùng, trước sau kiên định đứng bên cạnh bộ tộc Doanh Thị. Đến nay, vùng đất Tây Thùy, người không quá một vạn, nhưng lại nghe đợi triệu gọi từ cung Hàm Dương bất cứ lúc nào. Cho nên, từ lúc Tần Thủy Hoàng tự mình chấp chính đến nay, lấy người Tây Thùy làm gốc, xây dựng Trung Úy quân, thế nhưng, trước nay không chịu để cho Trung Úy quân tham chiến.
Đội nhân mã này, trừ Đế Vương Doanh Thị ra, không ai có thể triệu gọi. Điều kiện thứ hai tham dự gia vào Trung Úy quân, cần phải có võ nghệ cao cường. Trừ những điều cơ bản này ra, còn cần phải dày công tu luyện chiến thuật, tinh thông quân trận pháp. Lão Tần từ thời Tư Mã Thác trở đi, đã có kĩ thuật đào tạo Thiết Ưng Duệ sĩ. Tuy nhiên, muốn trở thành duệ sĩ, đúng là vô cùng gian nan. Nghìn người chọn một, vạn người chọn một, mới có thể trở thành Thiết ưng Duệ sĩ, trở thành dũng sĩ của Đại Tần. Lại bố trí như thế nào? Thế là Tư Mã Thác lại từ trong những dũng sĩ, chọn ra những người tinh nhuệ, tập hợp thành tiền thân của Trung Úy quân.
Đến lúc Thủy Hoàng đế đăng cơ, lại có cách nói âm dương ngũ hành Trâu Diễn. Quốc Úy Úy Liêu dựa vào âm dương ngũ hành này, lại diễn ra trận Ngũ Chùy, chuyên dùng cho diễn luyện Trung Úy quân. Bộ Tốt Ngũ Chùy Trận, Kỵ Quân Tam Chùy Trận, có thể chia thành tiểu trận, cũng có thể hội tụ thành đại trận, nghe nói uy lực vô song.
Nhưng, sức chiến đấu của Trung Úy quân trước nay chưa ai được nhìn thấy. Chỉ là người bên ngoài đồn đại, Trung Úy quân đệ nhất Quan Trung, đệ nhất thiên hạ. Một đội binh mã như vậy, nếu như không phải là người tâm phúc của Thủy Hoàng đế, sao có thể thống lĩnh? Cho nên nói, lúc Lưu Khám tiếp nhận Trung Lang Kỵ tướng, ngay lập tức ngẩn người.
Niềm vinh hạnh này, thật sự là đến quá nhanh!
Nhanh đến nỗi khiến Lưu Khám có chút khó có thể tiếp nhận...
Đêm đó, có nội thị dâng đến trang bị áo giáp của Trung lang kỵ tướng, cùng với một quyển binh có đóng dấu son đỏ của Nội phủ, là binh tác chiến chỉ huy trận Tam Chùy. Lưu Khám nâng áo giáp, có chút khóc không nổi cười không xong. Người khác nhìn vào, đây chính là vinh quang, nhưng đối với hắn mà nói lại là áp lực!
Đêm đã sâu. Giờ Tuất, gió thổi mạnh, nhiệt độ bỗng nhiên giảm. Trong cung Lạc Dương lại ấm áp như xuân. Mười mấy chậu than đặt ở trong đại điển. Thủy Hoàng đế ngồi ở phía trên cao lật xem công văn. Những công văn này đều là từ Hàm Dương dùng sáu trăm dặm cấp tốc gửi đến.
Tuy là Thủy Hoàng đế không ở Hàm Dương, nhưng đối với chính sự vẫn siêng năng như cũ. Cha con Phùng Kiếp, Phùng Khứ Tật ngày nào cũng dâng công văn lên cho Bệ hạ. Nếu như là trước đây, lúc chưa phát minh là giấy trình công, tấu chương mấy trăm cân, vận chuyển vô cùng khó khăn. Nhưng mà bây giờ, có giấy Trình công rồi, vận chuyển công văn cũng dễ dàng hơn nhiều.
Thủy Hoàng đế vô cùng chăm chú phê duyệt công văn. Dưới đại điện, nội thị Triệu Cao lặng lẽ chắp tay đứng thẳng, một hơi thở phải chia thành nhiều lần thở ra.
Ở bên cạnh Thủy Hoàng đế lâu rồi, Triệu Cao đương nhiên rõ tính tình của Thủy Hoàng đế. Đó là một người cuồng công việc, một khi bắt đầu công việc, không xử lí hoàn tất công việc, căn bản không thể nghỉ ngơi. Hơn nữa, trong thời gian Thủy Hoàng đế phê duyệt tấu chương, ghét nhất là có người làm phiền, kể cả một tiếng ho, thậm chí là tiếng hít thở to một chút, đều sẽ khiến cho lão nổi trận lôi đình. Vì điều này, quan Hàm Dương không hiểu chuyện chết không ít người, vết xe đổ, Triệu Cao sao có thể dẫm lên?
Ngoài đại điện, gió bắc gào thét.
Thủy Hoàng đế phê chuẩn tấu chương cuối cùng, buông bút lông, vươn vai mạnh một cái.
- Triệu Cao, tấu chương mà Hàm Dương đưa tới, chỉ có thế này thôi sao?
Chỉ thế này?
Tuy rằng đã dùng giấy trình công để sao chép, nhưng những tấu chương này, cũng phải đến hơn năm cân. Có lúc, Triệu Cao thật sự rất phục tinh lực của Bệ hạ, nếu đổi lại là người khác, cứ coi như là trẻ hơn Bệ hạ cả chục tuổi, e là cũng không thể chịu nổi công việc bận rộn đêm ngày như vậy.
- Bệ hạ, chỉ thế này thôi ạ!
Triệu Cao khẽ nói:
- Mùa tuyết đầu tiên ở Quan Trung đã tới. Hữu Thừa tướng phái người tới nói, tấu chương phía sau chắc phải đến muộn mấy ngày, xin bệ hạ thứ tội.
- Ừ...
Thủy Hoàng đế gật đầu, biểu thị đã biết.
Lão đứng lên, chuẩn bị đi về phía điện, nhưng đi được hai bước, đột nhiên dừng lại, quay đầu nói với Triệu Cao đang theo sát:
- Mệt mỏi cả đêm rồi, có chuyện gì, doanh canh lược lược đi.
Những lời Thủy Hoàng đế nói là phương ngôn Hàm Dương, ý là: bây giờ nói đi.
Doanh canh, trong phương ngôn Hàm Dương, chính là ý bây giờ, lược lược, cũng chính là ý cứ nói.
Triệu Cao cười ngượng ngùng:
- Ngày kia bệ hạ phải đi Huỳnh Dương triệu kiến bách quan rồi, sau đó phải đi tuần phía đông. Tại sao bây giờ lại để cho con trai của Lưu Thị đảm nhiệm chức Trung Quân kỵ tướng? Con trai Lưu Thị tuổi tác còn nhỏ, lại chưa được huấn luyện trong đại doanh Lam Điền, hình như có chút...
- Trẫm nói hắn thích hợp là hắn thích hợp!
Thủy Hoàng đế cắt đứt lời nói của Triệu Cao.
- Từ lúc con trai Lưu Thị đó xuất hiện ở Bắc Cương, trẫm luôn để ý đến hắn. Tên tiểu tử này võ dũng, điều này không cần phải bàn. Nói hắn là mãnh sĩ đệ nhất Lão Tần cũng không có gì quá đáng. Để cho hắn nhậm chức ở Lâu Thương, hắn cũng làm không tồi. Lúc loạn Tam Điền, rất biết tính toán. Xuất thân của hắn tốt, lại có chiến công, hơn nữa lại là con rể của Trinh Mẫu. Rất tốt. Rất tốt.
Nói đến mức này rồi, Triệu Cao còn có thể nói gì nữa.
*****
Thủy Hoàng đế nói tiếp:
- Mấy ngày trước, bảo hắn đứng ngoài cung hầu chỉ, tên tiểu tử này cũng rất kiên trì, hơn nữa lại cực kỳ cảnh giác. Trẫm đã sắp xếp hơn mười tên Thiết Ưng duệ sĩ âm thầm quan sát. Mặc dù không có hành động gì, nhưng có thể nhìn ra, hắn đã phát hiện ra. Người như vậy, nhậm chức Trung Lang Kỵ tướng là thích hợp nhất... Lão An tuổi cũng lớn rồi, cũng đến lúc hưởng phúc rồi!
Lão An vốn là Trung Lang Kỵ tướng Trung Úy Quân, nhân mã mà Lưu Khám tiếp nhận, vốn dĩ do Lão An chỉ huy.
- Trẫm dự định, nhân dịp tuần thú này tiếp tục quan sát tên tiểu tử kia một chút. Nếu như có thể, để hắn rèn luyện một thời gian trong Trung Úy quân, đợi tuổi lớn một chút, là có thể một mình đảm đương một phía Lão Tần ta. Hà, tên tiểu tử Phù Tô, tầm nhìn cũng thật là không tồi.
Một câu nói dường như là vô tâm của Thủy Hoàng đế, lại khiến cho Triệu Cao trong lòng sợ hãi.
Lưu Khám là người của Phù Tô!
Bây giờ xem ý của Thủy Hoàng đế, rõ ràng là muốn bồi dưỡng Lưu Khám. Nói cách khác, Bệ hạ chính là muốn bồi dưỡng nhân tài cho Đại công tử. Nếu như vậy, có phải là, bệ hạ đã có ý lập Đại công tử làm Thái tử? Nếu không, thanh niên toàn triều tài tuấn đông đảo như vậy, tại sao hết lần này đến lần khác coi trọng Lưu Khám? Bọn người Phùng Kính, không phải là xuất thân cao quý hay sao?
Nghĩ tới đây, Triệu Cao không khỏi cảm thấy lạc lõng.
Trước đây, Bệ hạ không lập Thái tử, lại sủng ái con út Doanh Hồ Hợi. Triệu Cao là thầy giáo của Doanh Hồ Hợi, mặc dù là nội thị, nhưng trong lòng đã có tính toán khác. Bất luận nói như thế nào, nếu như Hồ Hợi đăng cơ, lão ta cũng có thể coi như là một nửa đế sư rồi... Đến lúc đó quyền cao chức trọng phú quý cuồn cuộn kéo đến. Nhưng nếu như Đại công tử Phù Tô đăng cơ, thì lão có đáng là gì? Đến lúc đó... là công dã tràng!
Những ý nghĩ này cứ thi nhau kéo đến trong đầu lão. Cũng may Triệu Cao hầu hạ Thủy Hoàng đế đã nhiều năm, hơn nữa trước kia cũng đã suýt mất mạng, tâm tính đã tôi luyện được vững như đá. Trong lòng tuy rằng lo lắng nhiều điều, nhưng biểu hiện trên mặt vẫn bình tĩnh lạ thường. Lão lặng lẽ đi theo sau Thủy Hoàng đế, con ngươi đảo đi đảo lại không ngừng.
Trung Úy quân chỉ trung thành với Thủy Hoàng đế. Cho nên đối với sự thay đổi Trung Lang kỵ tướng cũng không có nhiều sự phản đối lắm.
Ngày thứ hai Lưu Khám nhận được thánh chỉ, chính thức trở thành Trung Lang kỵ tướng. Lưu Tín và hai mươi tên hầu cận cùng được gia nhập vào trong biên chế Trung Úy Quân, nhưng chỉ thuộc về Lưu Khám. Lưu Tín là Tiểu tướng kỵ quân, đi theo Lưu Khám. Trong Trung Úy quân, Tiểu tướng kỵ quận tương đương với Lư trưởng, có thể cai quản năm mươi người. Nhưng tên Tiểu tướng kỵ quân Lưu Tín này, trên thực tế không có thuộc hạ.
Trong Trung Úy quân quen thuộc được hai ngày.
Đến ngày thức ba, Thủy Hoàng đế khởi giá đi về Huỳnh Dương.
Kỵ quân là tiên phong. Lưu Khám dẫn hai nghìn kỵ quân xuất phát trước.
Lúc đến Huỳnh Dương, bọn người Doanh Tráng đã nghênh đón ở ngoài thành. Nhìn thấy Lưu Khám, Doanh Tráng không khỏi sững sờ. Còn Lưu Khám, chỉ có thể cười gượng với y, sau đó dẫn binh mã, xếp thành hàng cảnh giới, dọn dẹp quang cảnh xung quanh ngoài thành Huỳnh Dương, lập một đại trướng Hành Doanh.
Thủy Hoàng đế không định vào trong thành!
Lão sẽ ở trong lều ngoài thành Huỳnh Dương tiếp kiến các quan viên.
Một ngày sau, Thủy Hoàng đế lại khởi giá, chính thức bắt đầu hành trình đi tuần phía đông. Lưu Khám thậm chí còn không thể nói với Doanh Tráng được một câu. Cả ngày hắn đều dò xét bên ngoài Hành Doanh, đến tận đêm khuya mới có thể về nghỉ ngơi. Không thể nói chuyện với Doanh Tráng, càng không thể gặp mặt bọn Giả Thiệu. Thân là Trung Lang kỵ tướng, tất cả đều phải lấy sự an nguy của Thủy Hoàng đế là chủ, những việc khác đều là chuyện nhỏ.
Nhưng Giả Thiệu rất thông minh.
Trong lúc Lưu Khám đang tuần tra ngoài doanh, y đứng xa xa nhìn đối mặt với Lưu Khám.
Hai người không hề nói một câu nào với nhau. Giả Thiệu gật đầu với Lưu Khám, có ý nói: Ta đã từ Đại Lương trở về, nhưng không thành công, kế tiếp nên làm gì?
Còn Lưu Khám cũng chỉ gật đầu đáp lại.
Ý nói cho Giả Thiệu biết: Đợi bệ hạ rời khỏi Huỳnh Dương xong, ngươi dẫn bộ quay về Lâu Thương, tất cả chờ ta quay về tính tiếp.
Thế là, Giả Thiệu lập tức chắp tay cúi người, thúc ngựa rời đi.
Những chuyện sau đó, Lưu Khám cũng không biết!
Hắn là chủ tướng quân tiên phong, theo xa trượng của Thủy Hoàng đế, đi đến Vân Mộng ở phía nam. Dọc đường đi, một nắng hai sương khổ cực.
Giữa tháng mười một, xa trượng đến Vân Mộng.
Thủy Hoàng đế ở Đại Trạch Vân Mộng sau khi tế Thuấn Đế thì bỏ xa trượng, ngồi thuyền thuận theo Trường Giang xuống khúc sông, mặt nước đã đóng băng.
Sau đó trên sông Trường Giang, lại là một cảnh sắc khác. Nước sông cuồn cuộn chảy về đông, đoàn thuyền dài mười mấy dặm, trùng trùng điệp điệp đi trên mặt nước. Do Ly Sơn, Hoàng Lăng đã trở thành then chốt, cần một lượng củi lớn, cho nên trên mặt sông, dập dềnh rất nhiều cây gỗ lớn, chảy theo dòng nước.
Gỗ phía nam, đến phía bắc vô cùng phức tạp.
Trong đó khó khăn nhất là vấn đề đường xá.
Tuy rằng nói Thủy Hoàng đế đã tu sửa rất nhiều con đường, nhưng vấn đề vận chuyển vẫn còn tồn tại, đặc biết là ngang dọc sông Giang Nam lại càng trở nên khó khăn.
Nhiều lúc, vận chuyển gỗ lớn đều phải thông qua nước sông chảy.
Gửi đi ở thượng lưu, nhận lại ở hạ lưu. Ven đường luôn có người nhìn chằm chằm, phòng khi trên đường đi bị tắc nghẽn ở đoạn nào đó.
Cứ như vậy, tăng thêm tàu thuyền chỉ càng thêm khó khăn
Lưu Khám dẫn kỵ mã lên thuyền, trên đường không ngừng xử lí sông ngòi. Phải qua một tháng, đoàn thuyền đi qua Đan Dương, mới có thể yên ổn.
Đi bằng thuyền, đúng là khiến Lưu Khám khổ sở không ít...
Đoàn thuyền dừng lại ở Đan Dương, Thủy Hoàng đế bỏ thuyền lên xe. Khoảng chừng giữa tháng giêng, đến Tiền Đường.
Sau khi Thủy Hoàng đế đến Tiền Đường, liền đi liên tục không ngừng nghỉ.
Dẫn theo quan viên lớn nhỏ, đầu tháng hai thưởng thức con nước lớn Tiền Đường cuộn trào mãnh liệt. Đầu nguồn của sóng sông này, là mặt biển Đầu Sư Tử ở ụ Hoàng Sa. Đầu Sư Tử là một khối đá nhô lên trên mặt biển, nối liền với chân núi Tương Liên. Từ xa nhìn lại, giống như đầu một con sư tử đang xuống núi, cho nên gọi là Đầu Sư Tử, cũng là một nơi lý tưởng để ngắm sóng sông.
Mỗi đợt sóng sông dâng lên, cảnh trí lại có chút màu sắc khác biệt.
Đầu sóng nổi lên bùn, chìm xuống bãi biển, khi thì thẳng tắp, lúc thì quanh co, cuối cùng là thủy triều.
Kiếp trước Lưu Khám đã từng nhiều lần thưởng thức cảnh sóng sông Tiền Giang, thậm chí năm nào cũng ngắm. Nhưng ngày mười lăm tháng giêng, sóng dâng tương đối cao, nhưng nếu nói thời gian tốt nhất để ngắm triều sông, vẫn là ngày tám tháng tám, cách bây giờ còn hơn nửa năm nữa.
Thủy Hoàng đế đương nhiên không thể ở đây nửa năm được.
Dù sao cũng là thân Đế vương, một đời anh hùng kiệt xuất, trong triều còn rất nhiều chuyện quan trọng cần xử lí, cho nên chọn một ngày lành thưởng thức phong cảnh, mặc dù không nhìn thấy sóng sông dâng trào cuồn cuộn, nhưng có thể cảm nhận một chút, cũng là đủ rồi. Hơn nữa, lão căn bản không phải đến để vui chơi.
Thế nhưng, không ai có thể ngờ được.
Lần đến xem thủy triều này của Hoàng đế, lại gặp nhiều rắc rối, xảy ra một chuyện thị phi...
*****
Tiểu công chúa rơi xuống nước rồi!
Lưu Khám thân là Trung Lang kỵ tướng, chủ yếu là phụ trách canh giới bên ngoài. Vì vậy lúc đoàn người cùng Thủy Hoàng đế ngắm thủy triều, hắn vẫn chưa ở đây mà dẫn kỵ quân tản ra, canh giới động tĩnh xung quanh!
Nghe thấy tin tiểu công chúa rơi xuống nước, Lưu Khám vẫn chưa có phản ứng lại: Tiểu công chúa này, rốt cuộc là người như thế nào?
Tiểu công chúa là con út nữ mà hoàng đế cực kỳ sủng ái – Doanh Quả, cũng là chị của Doanh Hồ Hợi. Trong số các con, Phù Tô được theo giá hai lần, Hồ Hợi đây là lần đầu tiên, chỉ có Doanh Quả, ba lần Hoàng đế đi tuần thú, đều chỉ danh nàng đi cùng là có thể thấy rõ sự sủng ái của Thủy Hoàng đế với nàng.
May mà mình không theo giá đến xem thủy triều, nếu không xảy ra chuyện thế này, không tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Ý nghĩ đầu tiên trong đầu Lưu Khám là cảm thấy may mắn. Còn về phần tiểu công chúa nhìn thế nào, có xinh đẹp hay không, lại không suy nghĩ gì nhiều.
Lúc ở kiếp trước, là một người theo chủ nghĩa độc thân. Còn ở kiếp này, sau khi dung hợp kí ức của cả hai kiếp, tuổi tác thật sự của Lưu Khám, e là đã qua bốn mươi rồi. Sức khỏe tuy là đang ở tuổi thanh xuân khỏe mạnh, nhưng tư tưởng đã trở nên già nua. Đặc biệt là sau khi Lữ Trĩ mất, khiến cho Lưu Khám có rất nhiều cảm xúc. Trong nhà có thê tử xinh đẹp, Thục Trung có hồng nhan tri kỷ, ý niệm trêu hoa ghẹo nguyệt sớm đã phai nhạt rất nhiều. Điều mà hắn mong đợi nhất bây giờ, chỉ là thiên hạ thái bình, một đời bình an thôi.
- Nhị thúc, tiểu công chúa nhìn thế nào?
Ngược lại Lưu Tín lại rất có hứng thú, kéo Lưu Khám hỏi hết cái này đến cái kia. Cũng khó trách, cả ngày cậu ngoài luyện võ ra cũng chỉ có luyện võ, nữ nhân mà cả đời tiếp xúc được, ngoài Lữ Tu và Khám lão phu nhân ra, cũng chỉ có mỗi tiểu Thích Cơ thôi... Nhưng Thích Cơ kia cũng không có hứng thú nhiều lắm với cậu, còn nói chuyện với Hàn Tín và Tư Mã Hỉ nhiều hơn. Hai người đó đều dáng vẻ đường đường, oai hùng nho nhã. Còn Lưu Tín, cao lớn thô kệch đã đành, lại khiến người khác khiếp sợ. Ở bên cậu rất dễ khiến cho người ta cảm giác bức bách. Hơn nữa, người hiền như khúc gỗ như vậy, sao có thể làm cho nữ nhi vui mừng?
Cũng vì nguyên nhân này mà Vương Cơ mới nghĩ ra cách để Lưu Khám dẫn theo Lưu Tín đi rèn luyện kinh nghiệm.
Lưu Khám nghe xong câu hỏi này, nghĩ một lát, cười:
- Một cái mũi hai con mắt, một cái miệng hai cái tai, tóm lại không phải là người hai mũi ba mắt.
- Vậy không phải là như người bình thường sao?
- Thì vốn là người bình thường mà...
- Nhưng mà mọi người đều rất sợ nàng ấy? Hai ngày qua cháu đi qua Trung Quân, nhìn thấy bọn họ đều chau mày nhăn mặt. Còn có những viên quan, cũng đều có dáng dấp như vậy. Nếu nàng là người bình thường, tại sao lại có tình trạng như vậy? Mẫu thân và thím đều không khiến người khác sợ hãi như vậy.
Thời đại này, mặc dù nói Hoàng quyền không vượng, nhưng sự uy nghiêm của Thủy Hoàng đế cũng khiến người khác phải khiếp sợ.
Lưu Khám thật sự là không dám nói thêm điều gì với Lưu Tín. Hắn không thể nói ra được những lời như “yến tước yên chi hồng cốc chi chí”, càng không thể giống như Trần Thắng kia điên cuồng hét lên cái gì mà “Vương hầu tương tương trữ hữu chủng hồ”. Có những lời, trong giai đoạn này, trong lòng hiểu là được rồi, nhưng không thể nói ra. Dù sao, Thủy Hoàng đế còn, thì Đại Tần vẫn còn. Về phần tên tiểu tử ngốc này, cứ để cậu ta có một phần sợ hãi đi... Nhỡ may nói sai, đó sẽ là đại tội tịch thu tài sản cả nhà.
Thế nhưng cũng phải nói, Trần Thắng, Ngô Quảng bây giờ ở đâu rồi?
Sống ở thời đại này lâu lắm rồi, rất nhiều kí ức đều đã trở nên mơ hồ. Nhưng có một số người, một số việc, lại không thể không nhớ kĩ trong lòng. Từ sau khi đảm nhiệm chức Đô Úy Tứ Thủy, Lưu Khám phát hiện nơi Trần Thắng, Ngô Quảng khởi nghĩa nổi danh trong lịch sử làĐại Trạch hương lại thuộc vào phạm vi quản lí của hắn. Trên lịch sử nói, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa vũ trang ở Đại Trạch, trên đường về Ngư Dương, mà Ngư Dương lại ở phía Bắc.
Lưu Khám không thể không hoài nghi, Trần Thắng, Ngô Quảng, có đúng là dưới quyền của hắn không? Cho nên, từ sau khi làm Đô Úy Tứ Thủy, Lưu Khám liền âm thầm nhờ Lữ Thích Chi điều tra, xem xem có thể tìm thấy Trần Thắng và Ngô Quảng ở vùng Tứ Thủy hay không?
Nếu như có thể tìm thấy, cho dù không thể tiêu diệt bọn họ, cũng phải cẩn thận quản lí bọn họ. Nhưng mãi đến trước khi Lưu Khám phụng chỉ hầu giá, Lữ Thích Chi vẫn chưa tìm thấy tông tích của Trần Thắng và Ngô Quảng. Điều này cũng khiến trong lòng hắn thêm phần bất an. Đại Trạch cách Lâu Thương quá gần... Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, Lâu Thương là trung tâm dự trữ vật tư chiến lược vùng Tứ Thủy, sẽ phải đứng mũi chịu sào. Điều này cũng là nguyên nhân Lưu Khám tại sao để cho Chung Ly Muội từ quân Lâu Thương điều nhân mã ra đóng ở Đại Trạch.
- Tín, không được nói bậy!
Lưu Khám xoa xoa đầu Lưu Tín.
- Nhớ lấy, có những lời có thể nói trước mặt ta, nhưng chỉ cần có người thứ ba, sẽ không được phép nhắc lại.
Được rồi, đừng nghĩ lung tung nữa.
Cùng ta đi tuần tra. Chuyện này của Tiểu công chúa, chỉ e là phải nán lại ở đây hai ngày. Đây vẫn là đất Sở, phải cẩn thận hơn chút.
Lưu Tín gật đầu, lặng lẽ đi theo sau Lưu Khám, tiếp tục đi tuần tra.
Mấy ngày liền, tiểu công chúa cuối cùng đã thoát khỏi nguy hiểm.
Chỉ là bị nhiễm phong hàn, hơn nữa lại bị làm kinh sợ một trận, nhất thời không thể đi lại. Lại lưu lại ở Tiền Đường hơn mười ngày, thấy tiểu công chúa đã không còn chuyện gì rồi, Thủy Hoàng đế mới hạ lệnh, khởi giá tiếp tục tuần tra. Từ Tiền Đường đi về phía tây một trăm hai mươi dặm, từ đó vượt qua sông Phú Xuân.
Một dặm thời Tần, không giống như kiếp sau.
Lục xích là một bộ, ba trăm bộ là một dặm. Tính toán tỉ mỉ một chút, một dặm cũng bằng 425 mét. Một trăm hai mươi dặm, cũng khoảng một trăm dặm thời hậu thế.
Các quan viên Hội Kê sớm đã phụng mệnh xuống chân núi Hội Kê hậu giá.
Xa trượng đến, Quận thủ quận Hội Kê – Ân Thông, dẫn theo quan viên lớn nhỏ, cùng với gia tộc quyền thế bản địa, xếp thành hàng quỳ ở hai bên đường, cung nghênh Thủy Hoàng đế giá lâm.
Núi Hội Kê, vốn tên là Mao Sơn.
Bởi vì sau khi Đại Vũ Vương trị thủy xong, triệu tập chư hầu thiên hạ đến, phong chức tước cho những người có đức, thưởng cho những người có công, thay tên Mao Sơn thành Hội Kê. Đại Vũ Vương cũng trong lần tụ họp chư hầu này, mà củng cố lại địa vị của mình.
Núi Hội Kê vì vậy mà nổi danh thiên hạ, sau đó Đại Vũ Vương lại chôn cất ở núi Hội Kê.
Thủy Hoàng đế tương nhiên có công lao hơn Tam Hoàng Ngũ Đế, nhưng trên danh nghĩa, vẫn là phải tôn trọng Đại Vũ Vương.
Hơn nữa, lần này lão đi tuần thú Đông Nam, còn có một hàm ý khác. Đất Sở là vùng đất phản Tần mãnh liệt nhất, người Tần bản tính man rợ, dư nghiệt sáu nước nấp trong dân gian, khó có thể tìm kiếm. Cho nên, lão phải nhân cơ hội tuần tra, tuyên dương uy phong Đại Tần, làm kinh sợ phản tặc.
Ở Chư Kỵ, Thủy Hoàng đế mặt mày ôn hòa triệu kiến quan viên lớn nhỏ quân Hội Kê, cổ vũ khích lệ dân chúng.
Còn mấy ngày sau đó lên núi tế bái Đại Vũ Vương.
Bởi trước đó ở Tiền Đường xảy ra chuyện ngoài ý muốn, lần này Thủy Hoàng đế lên núi bái tế, không dẫn theo tiểu công chúa Doanh Quả đi nữa, để tiểu công chúa Doanh Quả và các phi tử đều ở lại trong Hành Dinh, và để Trung Úy Kỵ Quân ở lại trông nom Hành Doanh. Rốt cục, trong rừng núi, tác dụng của kỵ quân cũng không lớn lắm. Địa thế Hành Dinh trống trải, nếu như bị tấn công, lực sát thương của kỵ quân cũng vượt hơn hẳn bộ quân.
← Hồi 187 | Hồi 189 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác